16. Giác Ngộ thật sự nghĩa là gì


Mời bạn nghe bài đọc của trang trên các kênh sau:

Youtube

Apple Podcast 

Spotify

Trong tiếng Hán, riêng hai từ Giác và Ngộ có nghĩa như sau:

覺 / Giác: thức tỉnh về một điều gì, biết điều đã từng không biết

悟 / Ngộ: hiểu ra, vỡ lẻ

Giác Ngộ thường được dùng với nghĩa là người tu đạt được sự hiểu biết, vỡ lẽ ra điều tột cùng của giáo pháp. 

Không chỉ riêng đạo Phật, mà nhiều tôn giáo đều có khái niệm Giác Ngộ. Ta cùng tìm hiểu sự khác biệt và ý nghĩa thật sự của Giác Ngộ trong pháp Phật.

1. “Sống trong hiện tại” chưa phải là giác ngộ thật sự

Dưới sự giáo hoá minh bạch, thực tế của Đức Phật:

“Tôi là Phật đã thành, Chúng sanh là Phật sẽ thành”

Chánh pháp của Đức Phật không mang hình thức tôn tạo siêu huyền, mà luôn thực tiễn đối ứng với từng hoàn cảnh của chúng sanh, gồm đủ các thành phần giai cấp, trình độ, đạo đức…

Trong 45 năm giáo hoá, pháp Phật đã giúp chứng đắc hơn 2.400 vị A La Hán, trong đó có những người từng là tướng cướp, kỹ nữ.

Ngoài Đạo Phật, rất nhiều tôn giáo khác cũng nói đến giác ngộ, nhưng thường không nói rõ những trạng thái giác ngộ đó có bền vững hay không.

Có đạo sư ca ngợi trải nghiệm “sống trong hiện tại” như một trải nghiệm giác ngộ. Thực ra, trải nghiệm “sống trong hiện tại” chỉ là kết quả của Niệm xứ (Thân, Thụ, Tâm, Pháp) theo nhiều nghi thức khác nhau. Trải nghiệm “Niệm Xứ” này không bền, có thể mất đi rất nhanh.

Hình dung chúng ta đang nghĩ về hơi thở ra, thở vào bình an; nghĩ về việc cảm thấy nhẹ nhàng, yên bình. Đó là đang Niệm những cảm thụ nơi thân xác này.

Và khi thời gian Niệm ở những nơi có không gian yên tĩnh, âm thanh dễ chịu ấy kết thúc, bước ra thế giới bộn bề có người la mắng ta, làm sai ý ta thì ta sẽ như thế nào? Ta có sân, có bực tức, có khởi lên khó chịu, lo lắng không? Như thế, trạng thái an lạc này không bền vững.

2. Giác Ngộ thật sự phải dựa vào chính bản thân

Việc đạt Giác Ngộ, trong giáo pháp thực sự của Đức Phật, là hoàn toàn do nỗ lực tự thân. Chứ đó không do nương nhờ tha lực hay sự ban phúc của một vị thầy nào cả.

Đức Phật đã thuyết: “Hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, hãy lấy chính mình làm nơi nương tựa, không nương tựa vào ai khác. Hãy lấy Phật Pháp làm hòn đảo, lấy Phật Pháp làm nơi nương tựa, không ai khác có thể làm nơi nương tựa cho mình.”

Sự giác ngộ này không bám víu vào hạnh phúc của các cõi trời (thiên đàng), không tồn tại như một Đại Ngã mà hoàn toàn “Vô Ngã”.

“Ai ăn người ấy no, ai tu người ấy chứng”

3. Giác ngộ thật sự là không còn luân hồi sinh tử

Có những tôn giáo không xem việc chấm dứt tái sanh là giác ngộ, là giải thoát. Giáo thuyết của họ đa phần là tôn tạo sự nương tựa, phục vụ cho đấng nào đó để được độ trì tiếp dẫn trở về (thiên đường, cõi linh thiêng…).

Mặt khác, một số đạo sư thuộc Ấn Độ giáo chỉ nhấn mạnh vào cái “giác ngộ” trong đời sống này. Họ không bàn về sự chấm dứt tái sanh hoặc không chứng minh được khả năng chấm dứt tái sanh. 

Ví dụ như quan điểm Giác ngộ của Mật tông Phật giáo, một giáo phái xuất hiện rất muộn, khoảng một ngàn năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Mật tông có những kỹ thuật gồm những thủ ấn, thần chú, nhiều nghi thức cầu kỳ, thần bí nhằm đồng hóa thân tâm của người đệ tử chưa giác ngộ với thân tâm một vị thầy đã giác ngộ (thượng sư); hoặc với biểu tượng của một vị hóa thần được cho là Bản tôn của người tu tập….

Có thể thấy sự “giác ngộ” của Mật tông bắt đầu bằng sự tu tập dựa vào “tha lực”, tức những năng lực đến từ bên ngoài. Vì vậy Mật Tông hoàn toàn khác với Đạo Phật nguyên thủy.

Theo giáo pháp của Đức Phật, nếu không chấm dứt được tái sinh thì sự giác ngộ nhất thời trong đời sống ngắn ngủi này sẽ trở nên vô nghĩa.

Trong kinh điển, Đức Phật từ chối bàn bạc nhiều về các phạm trù Thượng Đế, Brahman, Tánh giác hay Phật tánh. Đức Phật cũng không dính mắc vào tranh cãi triết học.

Giáo pháp của Đức Phật không đặt mục đích phải biết và hiểu hết tất cả các quy luật vận hành của thế giới vật chất và thế giới tâm linh. Giáo pháp của Đức Phật chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất là làm cho con người hết đau khổ, và sau khi chết người giác ngộ an trú tại Niết-bàn mà không phải tái sanh.

Giáo pháp của Đức Phật giúp con người không phải lặp lại vô tận những chu kỳ của đời người, vốn mong manh và ngắn ngủi bởi sinh-lão-bệnh-tử.

Đích thực của Đạo Phật là thành tựu quả vị A-La-Hán, tức trạng thái Diệt Thọ Tưởng Định.  Tất cả chúng sanh đều do mê lầm (vô minh) mà dính mắc vào những giả cảnh của danh sắc. Chúng sanh không nhận ra chân tướng của vạn pháp, tất cả đều do nhân duyên cấu thành.

Nếu kiên trì tinh tấn tu tập, triệt để tránh vướng mắc vào những cảm thọ: sắc, thanh, hương,vị, xúc, pháp. Đó tức là đã được giải thoát.

Một tu sĩ Bà La Môn giữ phạm hạnh tuyệt đối để thực hành thiền định (samadhi). Nếu thành công, người tu sĩ này sẽ đạt đến cõi trời (thiên đàng), tương ứng của mức độ định mà người đó tu tập được. Đối với đạo Bà La Môn, cõi trời cao nhất được xem là mức giác ngộ cao nhất. 

Đức Phật cũng đã từng chứng đắc hết thảy tám tầng định của Bà La Môn, nhưng Ngài không thấy cõi trời tối cao là Giác Ngộ tối thượng. Với tín căn luôn mong mỏi tìm ra con đường giải thoát thật sự, làm động lực to lớn giúp Đức Phật vượt qua mọi quái ngại do ái dục khởi lên, do ma vương khủng bố quấy phá. Ngài đã kiên trì tinh tấn truy quán đến tận cùng sâu thẳm của tâm thức. 

Kinh điển có ghi lại diễn tiến tâm thức của Đức Phật dưới cội Bồ Đề khi Ngài đạt đến giác ngộ:

“Khi đã hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Nhưng những cảm giác hỷ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.

Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, trở nên nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những kí ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm, rồi trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta… Ta đã chết như vầy. Sự thấy biết đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu.

Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt vượt mọi giới hạn trần thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,… chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực.

Ta nhận ra rằng: Chúng sinh tạo bất thiện nghiệp qua ba nơi thân-khẩu-ý, thảy đều chìm đắm sau khi chết, rồi lại tái sinh trong đọa xứ hay địa ngục. Còn chúng sinh nào tạo thiện nghiệp nơi thân-khẩu-ý thì được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên. Sự thấy biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai.

Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu tan các lậu-hoặc và trực nhận ra rằng: “Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp diệt khổ, đây là con đường diệt khổ”, và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, khỏi ham muốn tồn tại và sự vô minh.

Ta nhận ra chân lý: Tái sinh ta đã đoạn, tức việc tu tập của ta đã hoàn tất. Ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua”… Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba.”

Bởi vì giác ngộ là đỉnh cuối cùng cho một quá trình tu chứng, là trải nghiệm độc nhất và riêng biệt trong tâm người tu chứng, cho nên không dễ để mô tả đầy đủ, tường minh về trạng thái này.

Tuy nhiên, ta vẫn có thể hình dung gián tiếp “trạng thái giác ngộ” qua con đường tu tập dẫn đến giác ngộ. Ta sẽ thấy giác ngộ của Đạo Phật nguyên thủy là kết quả của một quá trình tu tập rất khoa học để nhận biết tâm, làm trong sạch tâm, để phát triển trí tuệ đến cùng cực (tuệ giác thành tựu).

Và cuối cùng nhận ra Niết-bàn, như một trạng thái đặc biệt của tâm. Hoàn toàn không có tính thần bí trong sự giác ngộ, cũng không có sự ban phúc từ thượng đế hay một vị thầy nào dành cho người tu tập.

Giác Ngộ thật sự là sự thấy và biết chân tướng của vạn pháp. Chân tướng đó là vô thường/vô ngã.

Giác Ngộ là sự thấu quán đến cùng cực nguyên lý của tự nhiên, không nhằm mục đích nào khác ngoài việc giúp chúng sinh vượt thoát sự tái sinh trong tất cả các cõi, kể cả cõi trời.

Giác Ngộ thật sự chỉ có đạt được bằng việc tu tập tuệ quán.


Bình luận về bài viết này