Bạn có thể bài đọc của trang trên các kênh sau:
Tam Pháp Ấn trong Phật Học Nguyên Thuỷ cần được hiểu là ba điều thiết thực trọng yếu mà Đức Phật cần nói với chúng sanh. Ba điều đó là:
1 – Chư Hành Vô Thường Ấn
2 – Chư Pháp Vô Ngã Ấn
3 – Niết Bàn Tịnh, Tĩnh, Không

Trong đó, “Ấn” được hiểu là quy luật ấn định tất yếu của vũ trụ, chi phối mọi sự vật hiện tượng. “Chư hành” là nói đến tất cả những sự vận hành. “Chư pháp” là nói đến tất cả các sự vật, hiện tượng.
Tam Pháp Ấn có thể giải nghĩa ngắn gọn như sau:
1 – Chư Hành Vô Thường Ấn:
Mọi vận hành của sự vật, hiện tượng trong thế giới danh sắc đều không trường tồn, tất cả đều chuyển đổi không ngừng, đó là quy luật tất yếu. Ví như thân xác chúng ta đang tự nhìn thấy trong gương, đang luôn già yếu đi.
2 – Chư Pháp Vô Ngã Ấn:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới danh sắc đều không có cái ta riêng biệt tự do, tất cả đều do nhiều hợp cấu tạo thành, đó là quy luật tất yếu. Ví như thân xác của chính ta cũng hợp thành bởi nhiều phân tử, sóng hạt.
3 – Niết Bàn Tịnh, Tĩnh, Không:
Chỉ tồn tại một nơi trong sạch, tự tại ngoài thế giới danh sắc gọi là Niết Bàn, đó là quy luật tất yếu.
Để hiểu hơn về tam pháp Ấn, ta tìm hiểu về bản chất của chư pháp. Chư pháp biến hóa khôn lường, trùng trùng duyên khởi tạo ra thế gian muôn sắc thái, đan xen nhau từ đó mà tạo vòng nhân-quả, sanh-diệt, luân hồi vô cùng tận.
Chư pháp có 3 tướng trạng đặc thù nếu xét trong hệ quy chiếu nhận thức của 5 giác quan hạn hữu, gọi là 3 bản chất, hay tính chất căn bản, đó là: Sanh/Diệt, Tăng/Giảm và Tịnh/Cấu.
- Bản chất Sanh/ Diệt của chư pháp:
Ý nghĩa bản chất Sanh/Diệt có thể hiểu là: nếu hỷ sanh thì sầu bi diệt, nếu thiện sanh thì ác diệt, hoặc ngược lại khi ác sanh thì thiện diệt.
Hãy nhìn vào tấm bảng thông báo ở trường học hoặc công ty, theo bạn, tấm bảng đang như thế nào? Câu trả lời là tấm bảng đang sanh diệt.
Khi dùng kính hiển vi nhìn vào tấm bảng, ta sẽ thấy các phân tử trong tấm bảng đang biến đổi liên tục. Rồi đến 1 chu trình suy hoá của các phân tử này thì tấm bảng sẽ phân huỷ, trở về thành đất cát và chờ chuyển hoá cho sự vật, sự sống mới.
Sanh/ diệt không phải là sự mất đi mà là sự chuyển đổi. Sanh/ diệt không phải là sống/ chết. Khi con người kết thúc 1 chu trình sự sống, là khi đó tổ hợp hình sắc của cơ thể chuyển hoá chứ không phải là mất đi. Và rồi hình sắc mới sẽ được sanh ra từ tập hợp của tịnh/ cấu, tăng/ giảm trước đó.
- Bản chất Tịnh/ Cấu của chư pháp:
Tịnh/Cấu ý nghĩa là bớt ra hoặc thêm vào. Nếu chúng ta viết thêm chữ lên bảng, đó là bảng đang cấu vào, khi thêm chân cho tấm bảng thì đó là cấu thêm, thêm khung cho tấm bảng thì tấm bảng tiếp tục cấu. Còn ngược lại: ta xoá chữ, bỏ bớt chân và khung ra khỏi tấm bảng là tấm bảng tịnh đi.
- Bản chất Tăng/ giảm của chư pháp:
Tăng/Giảm ý nghĩa cường vượng lên là tăng, suy hoá đi là giảm. Ví dụ khi cái khung tấm bảng bị mục nát, là cái bảng đang giảm.
Vậy “Niết Bàn Tịnh, Tĩnh, Không” nên hiểu như thế nào?
Tịnh ở đây được hiểu là Thanh Tịnh hoàn toàn.
Vô cấu chính là Thanh Tịnh hoàn toàn. Tức mọi sự vật hiện tượng khi không còn cấu nhiễm thì đó là Tịnh thật sự.
Vô hành chính là Tĩnh hoàn toàn. Tức mọi sự vật hiện tượng khi không còn vận hành thì đó là Tĩnh thật sự.
Như vậy khi “vô hành – vô cấu”, thì khi đó cũng không còn “vô thường, vô ngã”. Cũng sẽ không còn sự biến chuyển của chư pháp, là không còn duyên tác, thế nên gọi là không.
Khi vạn vật còn đang “hành”, thì cũng có nghĩa là còn “niệm”. Những niệm nhỏ nhất của chư pháp gọi là Niệm niệm vô thường hay sát na vô thường, tạm ước lượng là 1 phần 64 triệu của 1 giây đồng hồ.
Vậy tột cùng của chánh niệm là gì? Tột cùng của chánh niệm là vô niệm.
