Tâm và Giới Định Tuệ – Pháp Bảo Đàn Kinh lược trích, Phần 1


Nghe các bài đọc của trang trên Radio trực tuyến

Pháp Bảo Đàn Kinh là bộ ngữ lục, quyển sách do tổ huệ năng giảng thuyết được ghi chép lại nên còn gọi là Lục Tổ Đàn Kinh.

Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn: “Ông là người phương nào, muốn cầu việc gì?”.

Huệ Năng: “Đệ tử là dân Tân Châu Lãnh Nam, từ xa đến lễ bái, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu việc gì khác”.

Ngũ Tổ: “Người Lãnh Nam, thuộc hạng nam man (dân An Nam mọi rợ), làm sao mà có thể làm Phật được?”

Huệ Năng “Người có Nam Bắc, Phật tánh vốn chẳng có Nam Bắc, thân hèn hạ này với thân Hòa Thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai biệt!”

Ngũ Tổ: “Người nam man này căn khí lanh lợi, thôi đừng nói nữa, hãy ra nhà sau đi!”

Huệ Năng lui ra nhà sau, có người sai bửa củi giã gạo, trải qua hơn tám tháng.

Ngũ Tổ: “Ta thấy chỗ biết của ông có thể dùng được, nhưng e có kẻ ác hại ông, cho nên chẳng nói với ông, có biết không?”

Huệ Năng: “Đệ tử biết ý Tổ, nên chẳng dám ra phía trước, để người đừng hay biết.”

Hôm sau, Tổ đến chỗ giã gạo, thấy Huệ Năng lưng đeo đá, giã gạo, bảo rằng: ‘Người cầu đạo, vì pháp quên mình đến thế sao?‘Gạo đã trắng chưa?’ 

Huệ Năng thưa: “Gạo trắng đã lâu, còn thiếu cái sàng gạo.”

Tổ liền dùng gậy gõ lên thành cối ba cái rồi đi. Huệ Năng hiểu ý Tổ, trống canh ba vào thất.

Ngũ Tổ lấy áo cà-sa che quanh, chẳng cho ai trông thấy, rồi giảng kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu “Nên sanh tâm từ nơi chỗ chẳng trụ vào đâu cả. [Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm]”

Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.

Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn

Huệ Năng vừa nghe liền đại ngộ, hiểu rằng hết thảy muôn pháp chẳng rời tự tánh. Liền bạch Tổ rằng: “Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt. Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ. Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động. Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp.”

Trong những đệ tử của Ngũ tổ, có sư Thần Tú được nhiều người kính nể tài thuộc kinh và thuyết giảng thu hút. Có lần, Ngũ tổ Hoàng Nhẫn cho các đệ tử viết pháp kệ, tức là từ việc hiểu phật học của mình mà viết lại đơn giản dễ hiểu cho người khác dễ nhớ dễ học.

Sau là pháp kệ của sư Thần Tú:

“Thân thị Bồ-đề thọ, Tâm như minh kính đài.

Thời thời cần phất thức, Vật sứ nhạ trần ai.”

Nghiã là:

“Thân là cây Bồ-đề, Tâm như đài gương sáng.

Thường siêng năng lau rửa, Chớ để bám bụi nhơ.”

Huệ Năng là người không biết chữ nên đã nhờ người đọc bài kệ của sư Thần Tú cho mình nghe. Rồi nhờ người ghi lại ý hiểu phật học của mình như sau:

“Bồ-đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài.

Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?”

Nghĩa là:

Vốn không cây Bồ-đề, cũng chẳng đài gương sáng.

Xưa nay không có vật gì, chỗ nào để bụi trần bám?

Tổ biết Huệ Năng đã ngộ về bổn tánh, nên đã truyền giáo pháp và Y Bát mà mọi người chẳng hay.

Tổ dạy rằng: “Nhà ngươi làm tổ đời thứ sáu khéo hộ niệm lấy mình, hãy độ rộng chúng sinh, lưu truyền đạo lý cho đời sau, đừng để cho dứt đứt.”

Huệ Năng được Tổ truyền Y, Bát vào năm Tân Dậu (661), từ biệt Tổ đi về phía Nam, trong hai tháng tới núi Đại Sưu. Phía sau có vài trăm người rượt tới để đoạt Áo và Bát.

Sau thời gian ẩn dật suốt 16 năm, lục tổ Huệ Năng khai đàn thuyết giảng, Thần Tú thường nghe người ta nói về giáo lý đốn ngộ và pháp trực chỉ của Huệ Năng. Ông bèn gọi môn đệ ưu tú của mình tên là Chí Thành đến núi Tào Khê thăm dò…

Khi Chí Thành tìm gặp được Lục tổ Huệ Năng:

Lục Tổ: “Ông từ phương ấy tới, đương nhiên là gian tế”.

Chí Thành: “Không phải”

Lục Tổ:  “Tại sao không phải?”

Chí Thành: “Lúc Hòa thượng chưa giảng pháp thì đệ tử là thế, sau khi nghe Hòa thượng giảng pháp rồi, đệ tử không còn thế nữa”

Lục Tổ: “Phiền não tức là Bồ đề, cũng như thế mà thôi. Tôi nghe Thiền sư Thần Tú chỉ truyền tam học Giới, Định, Tuệ. Vậy ông thử nói cho tôi nghe xem ông hiểu thế nào về Giới – Định – Tuệ?”

Chí Thành:  Không làm các điều ác gọi là Giới, làm tất cả những điều thiện gọi là Tuệ, tự tịnh ý mình gọi là Định. Vậy chẳng hay kiến giải của Hòa thượng như thế nào?”.

Lục Tổ:  “Lối giải thích ấy quả thật là bất khả tư nghị, song kiến giải của Huệ Năng lại khác”.

Chí Thành:  “Khác như thế nào?”.

Lục Tổ:  “Cách thấy có nhanh có chậm”.

Chí Thành: Kính nhờ Hòa thượng giảng về kiến giải của ngài về giới, định và tuệ.

Lục Tổ: “Ông nghe tôi nói đây, rồi ông sẽ hiểu chỗ thấy của tôi.”

Lục Tổ Huệ Năng “Tâm địa không có nghi hoặc là giới của tự tánh. Tâm địa không có động loạn là định của tự tánh. Tâm địa không có si là tuệ của tự tánh.”

Đại sư Huệ Năng lại nói: “Giới, Định và Tuệ của ông là để khuyến những người có căn cơ thấp, giới, định và tuệ của tôi là để khuyên những người có căn cơ cao. Bởi vì giác ngộ tự tánh chính là cốt yếu của giáo lý của tôi. Thực ra tôi cũng chẳng câu nệ việc lập giới, định và tuệ.” (Bất lập Giới Định Tuệ).

Chí Thành: “Xin Đại sư giải thích cho đệ tử biết “bất lập” có nghĩa là gì?”.

Lục Tổ: “Tự tánh không sai, không loạn, không si. Trong từng niệm để trí Bát nhã quán chiếu, luôn luôn xa lìa pháp tướng, thì có gì để lập?”

Tự ngộ tự tánh mình, đốn ngộ, đốn tu.

Lục Tổ Huệ Năng

“chẳng có gì là tiệm thứ. Cho nên chẳng lập bất cứ gì cả.”


Bình luận về bài viết này